Theo thống kê của tòa án các cấp, hàng năm số vụ án hôn nhân và gia đình không ngừng tăng lên, trong đó có vụ án ly hôn. Để giải quyết vụ án ly hôn một cách thấu tình đạt lý, một trong những vấn đề đầu tiên và được coi là “mắt xích” không thể thiếu trong quá trình giải quyết đó là xác định căn cứ ly hôn.

1. Nhu cầu hoàn thiện
Với vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta, pháp luật về hôn nhân gia đình trong nước đã từng bước thay đổi và hoàn thiện cùng với quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung. Trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện pháp luật hôn nhân và pháp luật trong nước nói chung về căn cứ ly hôn nói riêng. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng về vấn đề này nhưng vẫn còn chung chung, thiếu cụ thể và chi tiết, cần đề xuất sửa đổi cho phù hợp và hòa nhập với các quan hệ hợp tác quốc tế. Chưa lượng hóa được nội dung căn cứ thuận tình ly hôn nên nhận định của Thẩm phán khi giải quyết vụ án chưa thống nhất, đồng bộ. Có trường hợp còn nhầm lẫn giữa căn cứ thuận tình với căn cứ thuận tình ly hôn và căn cứ thuận tình ly hôn dẫn đến không bảo đảm quyền lợi của vợ, chồng, gia đình và xã hội. Qua bài viết này, ông chỉ nêu ra những tồn tại, bất cập và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn trong pháp luật hôn nhân trong nước hiện nay.
2. Những thiếu sót trong việc áp dụng căn cứ thuận tình để giải quyết vụ án ly hôn
Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý và chỉ khi có đủ các điều kiện này thì tòa án mới có thể ra quyết định cho ly hôn. Tuy nhiên, trên thực tế, việc giải quyết các vụ án hôn nhân trong nước còn nhiều bất cập.
Thứ nhất, sự bất cập của công nghệ thông tin. Vì quyền được tự do và tự nguyện phục vụ phải được bảo đảm khi ly hôn, nên trong quá trình hòa giải xã hội không cần dựa vào yếu tố lỗi, không cần dựa vào yếu tố “hôn nhân lâm vào cảnh trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” yêu cầu ly hôn. Các bên đương sự không cần chứng cứ để chứng minh ai là người có lỗi dẫn đến tình trạng hôn nhân trầm trọng… và tòa án không phải thu thập chứng cứ để chứng minh; nếu tòa án chỉ căn cứ vào ý chí thực sự tự nguyện của vợ, chồng để chấm dứt quan hệ hôn nhân, đồng thời họ thỏa thuận được với nhau về các vấn đề khác có liên quan thì anh ấy mới đủ điều kiện kết hôn. Vì vậy, trên thực tế có nhiều cặp vợ chồng thực sự vẫn chung sống với nhau, quan hệ hôn nhân vẫn tồn tại nhưng vì muốn trốn tránh nghĩa vụ gia sản đối với người thứ ba; ly hôn giả để được đi nước ngoài; do chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình… nên đã làm đơn yêu cầu tòa án giải quyết việc đặt vòng tránh thai Tòa án đã ra quyết định về việc đặt vòng tránh thai cho vợ, chồng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau đó mới phát hiện họ ly hôn để trốn nợ với người khác, để đi nước ngoài, vì chính sách dân số… Trong những trường hợp này, mặc dù việc ly hôn là tự nguyện, thống nhất nhưng không đúng bản chất, gây bất lợi cho các bên; đồng thời gây khó khăn trong việc giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng. Trong trường hợp này, theo ý kiến cá nhân của người viết thì pháp luật quy định về trình tự, thủ tục khởi kiện như trên là rất gọn nhẹ, thuận lợi cho đương sự thực hiện quyền tự do ly hôn của mình. Tuy nhiên, để hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp ly hôn vì mục đích khác, nên chăng pháp luật buộc họ phải có sự bảo đảm rằng việc ly hôn của họ xuất phát từ tình trạng quan hệ vợ chồng, giữa họ không còn tình yêu, không còn muốn chung sống với nhau và có mong muốn chấm dứt hôn nhân thực sự là ý muốn của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, các biện pháp này chỉ mang tính chất phòng ngừa, pháp luật phải quy định chế tài cụ thể, xác định rõ trách nhiệm của vợ, chồng trong trường hợp ly hôn giả tạo. Nếu có lý do để vợ, chồng lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, để đi du lịch nước ngoài, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân thì họ phải chịu những hình phạt cụ thể như phạt tiền với số tiền nhất định bị sung công quỹ nhà nước. Có như vậy mới hạn chế được những trường hợp trục lợi từ đổ vỡ hôn nhân vào mục đích khác. ảnh hưởng đến sự cân bằng của các quan hệ trong xã hội.
Thứ hai, đánh giá không đầy đủ về mức độ nghiêm trọng của hôn nhân trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của người chồng.
Theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà tại Tòa án hòa giải không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực, hạn chế hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đây là một quy định mới rất khái quát. Tuy nhiên, quy định về căn cứ ly hôn thể hiện yếu tố tình cảm còn chung chung. Khi xét đến các vụ án riêng lẻ, với sự đa dạng của cuộc sống, mỗi cặp vợ chồng, mỗi vụ án ly hôn thường có những mâu thuẫn cũng như hoàn cảnh khác nhau. Trong khi đó, chưa có cơ sở rõ ràng để xác định hành vi nào “làm cho hôn nhân trở nên trầm trọng, việc chung sống không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”, hành vi nào là “vi phạm nghiêm trọng” nên việc kiểm tra, đánh giá căn cứ trên là rất khó khăn, bất tiện. Vì vậy, trong thực tiễn xảy ra trường hợp cùng một vụ án nhưng có nhiều cách hiểu khác nhau ở cấp xét xử khi áp dụng pháp luật. Do pháp luật quy định không rõ ràng, đặc biệt là căn cứ ly hôn nên thực tiễn xét xử hoàn toàn phụ thuộc vào thẩm phán, có thể cùng một nguyên nhân nhưng có nhiều cách giải thích khác nhau, cách giải quyết của vụ án cũng khác nhau. Vì vậy, cần có các tiêu chí cụ thể về ly hôn để áp dụng trên thực tế.
Thứ ba, đối với trường hợp vợ chồng đã ly thân trên thực tế
Luật chung sống 2014 không quy định ly thân là căn cứ ly hôn. Tuy nhiên, trên thực tế tòa án thường coi ly thân là căn cứ để ly hôn. Ví dụ: Ông D và bà D không chung sống với nhau từ tháng 6 năm 2014 đến nay. Trong thời gian này, cặp đôi không thể đoàn tụ. Anh D và chị D không còn quan tâm, có trách nhiệm với nhau. Trong quá trình giải quyết ly hôn, bà D lại làm đơn xin ly hôn. Trong trường hợp này, anh D và chị D đã ly thân từ lâu, không quan tâm, có trách nhiệm với nhau, không cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Tòa án đã mở phiên hòa giải để giải quyết cho vợ chồng đoàn tụ nhưng ông D vắng mặt. Xét thấy mâu thuẫn gia đình nghiêm trọng, Tòa án đã ra phán quyết thuận tình cho ly hôn. Vấn đề này không được pháp luật quy định nên rất khó xác định vợ hoặc chồng nào đó có ở trong tình trạng ly thân hay không. Mặt khác, không xác định được thời điểm ly thân nên việc giải quyết ly hôn thường kéo dài, gây khó khăn cho nhiều bên trong việc xây dựng cuộc sống mới.
Thứ tư, trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù hoặc không có tên trong danh sách truy nã:
Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2014 chưa quy định căn cứ ly hôn nếu vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt tù hoặc bỏ trốn. Do đó, trong trường hợp vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà vợ hoặc chồng đang chấp hành hình phạt tù hoặc bỏ trốn thì không đủ căn cứ để yêu cầu ly hôn. Điều này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự xin ly hôn.
Thứ năm, bất cập trong trường hợp cha, mẹ, những người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết cho ly hôn khi một trong hai bên vợ, chồng do bệnh tâm thần hoặc bệnh khác không thể nhận thức, kiểm soát và điều khiển được việc ly hôn. của vợ, chồng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tinh thần của họ. Khi một trong hai bên vợ hoặc chồng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì mục đích của hôn nhân không đạt được thì có cần thiết phải có người là nạn nhân của bạo lực gia đình hay không thì chấp nhận giải quyết ly hôn. Đây là một bất cập trong việc áp dụng căn cứ thuận tình ly hôn cần có sự hướng dẫn thống nhất.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn
Pháp luật hôn nhân trong nước ngày càng hoàn thiện để đáp ứng tốt hơn yêu cầu khách quan của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, qua thực trạng xây dựng pháp luật cũng như thực thi pháp luật nói chung, căn cứ ly hôn đặc biệt là trong pháp luật hôn nhân nước ta hiện nay chưa thực sự đi vào đời sống xã hội và chưa trở thành chuẩn mực xử lý của pháp luật. các thành viên trong gia đình. Có nguyên nhân chủ quan, có nguyên nhân khách quan, nhưng để pháp luật hôn nhân nước nhà nói chung và căn cứ ly hôn nói riêng thực sự toàn diện cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần lượng hóa nội dung của tiêu chí về căn cứ ly hôn theo quy định tại khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014.
Ngoại tình là một trong những hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy giữa vợ và chồng, đạo đức xã hội. Luật Hôn nhân Gia đình 2014 quy định: Nghiêm cấm người đang có vợ hoặc chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người độc thân hoặc chưa có gia đình kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đã có gia đình. Trước đó, theo sắc lệnh số 159/SL ngày 17-11-1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nêu rõ những trường hợp ngoại tình, bỏ đảng trên hai năm mà không có lý do chính đáng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tòa án cho phép ly hôn. Vì vậy, cần bổ sung hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn khi vợ hoặc chồng ngoại tình vào Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và Biện pháp thi hành Luật Hôn nhân, cụ thể là như sau: “Trong trường hợp một trong hai bên vợ, chồng có hành vi ngoại tình nhiều lần hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc có tài liệu của cơ quan điều tra xác định có dấu hiệu tội phạm (xâm phạm chế độ một vợ, một chồng) nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự Hành vi ngoại tình của vợ hoặc chồng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng Hậu quả nghiêm trọng có thể xâm hại đến tính mạng, sức khỏe và tinh thần của bên kia, làm tan vỡ gia đình. Trường hợp vợ hoặc chồng có hành vi ngoại tình và bỏ nhà đi quá hai năm mà không có tin tức, không có trách nhiệm với gia đình, không cùng nhau xây dựng mục đích hôn nhân làm cho quan hệ vợ chồng rạn nứt”.
Thứ hai, cụ thể hóa quy định về hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ cho ly hôn: Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cần bổ sung hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn khi vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình, cụ thể là:
“Trong trường hợp chồng hoặc vợ có hành vi bạo lực gia đình thì vợ hoặc chồng được Tòa án giải quyết cho ly hôn khi có căn cứ sau: Đối với hành vi bạo lực vật chất: Vợ, chồng thường xuyên đánh đập, ngược đãi, hành hạ làm cho người bị ngược đãi, hành hạ luôn bị giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị thương tích, tổn hại đến sức khỏe mà chưa đến mức xử lý về hình sự hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính. Đối với bạo lực tinh thần: Vợ, chồng bị chửi bới, sỉ nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín. Hành vi bạo lực của vợ, chồng được lặp đi lặp lại nhiều lần, đã được chính quyền địa phương nhắc nhở hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc có văn bản của cơ quan điều tra có dấu hiệu tội phạm (tội ngược đãi vợ; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội bức tử) nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Thứ ba, pháp luật Việt Nam cần công nhận ly thân và xem ly thân là một trong những căn cứ để cho ly hôn: Căn cứ ly hôn do ly thân:
“Trong trường hợp vợ chồng đã sống ly thân từ trên 2 năm mà vẫn không thể quay về với nhau để chung sống hạnh phúc hoặc sống ly thân trên 2 năm theo quyết định của Tòa án thì Tòa án giải quyết cho ly hôn mà không phải xem xét, đánh giá thực trạng quan hệ vợ chồng và các bên không phải chứng minh tình trạng trầm trọng của hôn nhân”.
Thứ tư, cần bổ sung quy định về căn cứ cho ly hôn khi vợ hoặc chồng phạm tội đang chấp hành hình phạt tù và bị cơ quan tiến hành tố tụng truy nã:
Cần bổ sung quy định về căn cứ ly hôn. căn cứ thuận tình ly hôn khi vợ hoặc chồng phạm tội, đang chấp hành hình phạt tù, đang bị cơ quan pháp luật truy nã. Cụ thể như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người chấp hành án phạt tù, người bị cơ quan tiến hành tố tụng truy nã yêu cầu ly hôn thì Tòa án tuyên bố cho ly hôn”.
Thứ năm, cần quy định cụ thể về việc người thứ ba có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn:
Cha, mẹ, những người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn khi một trong hai bên vợ hoặc chồng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. bệnh tật làm cho họ không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Hiện nay pháp luật chưa quy định rõ cha mẹ đẻ là cha mẹ đẻ của vợ hay chồng hay cả cha và mẹ có được hưởng không? Cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn hay không thì pháp luật chưa có quy định cụ thể. Từ đó, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trên thực tế không thống nhất, đòi hỏi phải có những quy định cụ thể, chi tiết hơn về chủ đề liên quan này. Theo quan điểm của tác giả, cha, mẹ và những người thân thích của bên chồng đều là những chủ thể có quyền tham gia vào việc yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn, trên cơ sở quy định của BLDS và Luật Hôn nhân và gia đình phải có sự thỏa thuận thống nhất. Cũng cần bỏ quy định “đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra mà ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ” .
Thứ sáu, vợ, chồng ly hôn do không còn yêu nhau nhưng trong đời sống vợ chồng không có xích mích, mâu thuẫn:
Căn cứ để ly hôn được quy định tại Điều 55, 56 của luật hôn nhân và gia đình mới 2014. Chỉ quy định về quan hệ xã hội và ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng; Ly hôn theo yêu cầu của người thứ ba. Tuy nhiên, trong thực tế đời sống xã hội, có những trường hợp vợ, chồng ly hôn do không còn tình cảm với nhau nhưng trong cuộc sống vợ chồng không xảy ra xích mích, mâu thuẫn, bạo lực gia đình; hoặc trường hợp của một trong đương sự mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
Chúng ta có thể quy định, tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn của hai bên trong trường hợp họ không có tình cảm với nhau, không có mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân và họ muốn ly hôn vì tình trạng hôn nhân thì ra quyết định “công nhận thuận tình”. ly hôn”. Trong trường hợp hai bên làm đơn ly hôn, nếu xét thấy cả hai không còn tình cảm thì quyết định ly hôn của tòa án là giải pháp tốt nhất cho họ. Tuy nhiên, để chấp nhận văn hóa thông tin thì cần buộc họ phải tham gia vào các quan hệ xã hội không có mục đích khác như trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba, trốn tránh chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, đi nước ngoài, vì mục đích khác… Để giải quyết các vấn đề trên, pháp luật cần phải có biện pháp sửa đổi, bổ sung. hoàn thành nó để làm cho nó hoàn hảo hơn.
✅ Dịch vụ thành lập công ty | ⭕ Zluat cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc |
✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh | ⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình |
✅ Dịch vụ ly hôn | ⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn |
✅ Dịch vụ kế toán | ⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật |
✅ Dịch vụ kiểm toán | ⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác |
✅ Dịch vụ làm hộ chiếu | ⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin |