Bộ luật Hồng Đức bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ thế nào?.

Bộ luật Hồng Đức nói riêng và bộ luật thời Lê sơ nói chung mang đặc điểm của bộ luật Đại Việt, phản ánh trung thực và sâu sắc hoàn cảnh xã hội nước ta thế kỷ XV trở về sau.
Tính đặc thù của “Quốc triều hình luật” thể hiện rõ trong hai chương “Hồ Chí Minh” và “Tiên sản”. Thông qua hai chương này, các nhà làm luật đã nhấn mạnh đến cá nhân và vai trò của phụ nữ – điều mà các luật trước đây và sau này không mấy quan tâm. Có 53/722 điều luật (7%) xử lý về hôn nhân – gia đình; 30/722 luật (4%) giải quyết về hương, tế, thừa kế và sở hữu đất đai. Các luật này ít nhiều đã đề cập đến một số quyền của phụ nữ trong xã hội và trong gia đình. Về lý thuyết, người vợ buộc phải phụ thuộc vào chồng và không làm gì nếu không có sự chỉ đạo hoặc đồng ý của anh ấy. Nhưng trên thực tế, tình trạng của vợ và chồng rất khác nhau tùy theo vị trí kinh tế và xã hội của họ. Cũng như chồng, người phụ nữ Việt Nam xưa đã sở hữu tài sản riêng và tham gia vào các hoạt động kinh tế. Đó là điều khác biệt với phụ nữ Trung Quốc. Trong công việc, phụ nữ được trả công như công nhân nam, “không có sự phân biệt tiền công ngày của nam và nữ” (1) . Điều 23 của “Quốc triều hình luật” quy định tiền công ngày của nô lệ là 30 đồng. Việc trả công bình đẳng này cho thấy rõ ràng rằng công việc của phụ nữ được đánh giá cao và vị trí của phụ nữ được tôn trọng trong xã hội.
Trong hôn nhân, người phụ nữ cũng có thể nộp đơn ly hôn (khởi kiện).

 

Điều 322 – “Quốc triều hình luật” quy định: “Con gái thấy chồng mình tàn tật, có thể gọi quan về trả lễ vật”, nếu “rể xúc phạm cha mẹ vợ thì đưa đến quan, cho li dị”. Trong gia đình, vợ tương đối bình đẳng với chồng nên hôn nhân không được coi là sự chuyển hẳn người con gái từ nhà nội sang nhà chồng như ở Trung Quốc. Không chỉ vậy, pháp luật còn bảo vệ phụ nữ. Được phép đến nhà chủ để nộp đơn ly hôn nếu chồng không chăm sóc vợ trong 5 tháng (1 năm – nếu vợ có con). Nếu người phụ nữ trình đơn trước công chúng, luật cho phép ly hôn cưỡng bức. Nói cách khác, nếu chồng không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với vợ thì vợ không có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều khoản này không được tìm thấy trong bất kỳ bộ luật hay văn bản luật cổ nào của Trung Quốc trước hoặc sau thời nhà Lê. Mặc dù pháp luật buộc người chồng phải bỏ vợ trái với ý muốn của vợ, nhưng Điều 310 quy định rằng “Vợ hoặc con dâu đã làm điều gì đó ‘đáng hổ thẹn’ mà người chồng kiên nhẫn không từ bỏ. Tuy nhiên, sẽ không thể thuận tình ly hôn nếu trong thời gian phạm tội, người vợ thuộc ba trường hợp (ba không xét): để tang nhà chồng 3 năm; khi lấy chồng nghèo nhưng sau giàu; Khi anh kết hôn, anh có gia đình, nhưng khi anh ra đi, anh không có gia đình để quay về. Đồng thời, khi cả hai vợ chồng để tang cha mẹ, vấn đề ly hôn không nảy sinh. Trong trường hợp ly hôn, con thường thuộc về người chồng, nhưng nếu người vợ muốn giữ con thì người vợ có quyền đòi một nửa số con. Điều 167 – Hồng Đức Thiện Chính Thư – quy định rõ về hình thức ly hôn thuận tình: Việc thuận tình ly hôn được lập dưới hình thức hợp đồng, vợ và chồng mỗi người giữ một bản. Như vậy, bên cạnh sự đồng ý của cha mẹ hoặc những người thân thích khác là rất quan trọng, thì sự đồng ý của con trai và con gái cũng là một yếu tố được nhà làm luật lưu ý.
Sau khi việc ly hôn chấm dứt hoàn toàn, hai bên có quyền kết hôn với người khác mà pháp luật không cấm.
Thông thường, nếu việc ly hôn không do lỗi của người vợ thì tài sản riêng (bao gồm bất động sản và các vật dụng cá nhân) người vợ có quyền mang về nhà. Trong trường hợp có lỗi; thường người vợ không tự nguyện mang của cải hoặc có trường hợp người vợ buộc phải để lại của cải cho chồng, “nếu vợ ngoại tình thì của cải phải trả lại cho chồng”(2).
Ngoài ra, việc phân chia và thừa kế tài sản còn phụ thuộc vào việc hai vợ chồng có con hay không. Luật được cụ thể hóa tại các điều 374, 375 và 376 (Bộ luật hình sự Vương quốc Anh). Tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: tài sản của chồng được thừa kế từ gia đình chồng; tài sản của vợ được thừa kế chung của gia đình vợ và tài sản do vợ chồng tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là tài sản chung. Trong trường hợp ly hôn, tài sản của ai thì người đó sẽ nhận riêng và chia tài sản chung của hai người.
Khi chồng chết trước (hoặc vợ chết trước) thì tài sản cha mẹ tặng cho được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho nhà chồng để lo việc cúng tế (họ hàng bên chồng hoặc những người thừa kế bên chồng). Phần vợ hoặc chồng phải cưu mang suốt đời (nhưng không có tài sản). Khi vợ chết, phần tài sản này được chuyển cho gia đình chồng.
Đối với tài sản do hai người tạo lập cũng được chia thành hai phần bằng nhau: một phần vợ, chồng để làm của riêng; phần cho vợ hoặc chồng được chia như sau: 1/3 cho gia đình bên vợ lo việc cúng tế; 2/3 là của chồng để giữ suốt đời, không chiếm đoạt, khi chết sẽ giao cho gia đình chồng. “Quốc triều hình luật” không đề cập đến động sản mà chỉ có bất động sản, theo Vũ Văn Mẫu: “Điểm này cũng dễ hiểu vì trong nền kinh tế nông nghiệp, các động sản khác chỉ là những vật có giá trị nhỏ”. Nhưng trong “Hồng Đức Thiện Chính Thư” (Điều 258-259) không loại trừ hoàn toàn động sản khỏi di sản thừa kế. “Giống như một ngôi nhà chỉ có thể được chia đôi, một phần của người sống được dùng làm nơi ở và một phần của người chết được dùng làm nơi hiến tế.” “Những gì còn lại phải để làm của lễ, và theo phong tục của người ta là trả nợ miệng, những gì còn lại phải chia cho vợ và con cái.” “Tài sản nổi” ở đây có nghĩa là vàng, bạc, lụa, vải, gạo, giường, sứ, mâm, thau… Như vậy, pháp luật cũng đã ghi nhận công sức đóng góp của vợ vào công ích của vợ chồng và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản do vợ, chồng tạo thành.

Trong quyền thừa kế tài sản do cha mẹ để lại, pháp luật thời Lê không phân biệt con trai và con gái. Nếu cha mẹ mất cả hai thì lấy 1/20 phần ruộng đất của hương án giao cho con trưởng giữ, phần còn lại chia đều cho các con (Điều 388); “Lư hương có con trưởng thì dùng con trưởng, lư hương không có con trưởng thì dùng con trưởng” (điều 391). “Hương điền cho con cháu, không thì cho cháu gái trưởng”.
Về việc áp dụng hình phạt “ngũ trượng” (3) có sự phân biệt giữa nam và nữ: không áp dụng hình phạt “ngũ trượng” đối với nữ và áp dụng riêng từng loại tội đối với nam và nữ (điều 1 – Quốc triều hình sự).
Tóm lại, Bộ luật Hồng Đức có ý nghĩa to lớn trong lịch sử chế độ phong kiến ​​Việt Nam. Bộ luật này về cơ bản được duy trì để thi hành trong các thế kỷ tiếp theo, cho đến khi triều Nguyễn ban hành bộ luật Gia Long thì uy tín và tinh thần của các điều khoản trong bộ luật Hồng Đức vẫn còn sống động trong nhân dân. Bộ luật này đã có những quy định tương đối tiến bộ, ghi nhận một số quyền nhất định của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​và phần nào bảo vệ họ trước thái độ “trọng nam khinh nữ”… Có lẽ vì thế mà ta thấy trong truyện Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Huyện bà Huyện Thanh Quan… mạnh mẽ, mãnh liệt, muôn hình vạn trạng nhưng cũng sâu lắng, lắng đọng! Họ nói cho phụ nữ. Họ đấu tranh vì phụ nữ… Và cho đến nay, dưới thời đại Hồ Chí Minh, phụ nữ bình đẳng với nam giới, không còn tình trạng “trọng nam khinh nữ”, quyền của phụ nữ được thừa nhận và bảo vệ như nam giới, nên ta thấy quyền của người phụ nữ xưa còn quá ít, họ vẫn bị gò bó, ràng buộc, chi phối bởi nhiều chuẩn mực đạo đức phong kiến… Dưới triều Lê, người phụ nữ bắt đầu nhận thức được vai trò to lớn của người phụ nữ trong sản xuất và đời sống. Đó là sự tiến bộ trong các triều đại phong kiến ​​Việt Nam.

Bài viết cùng chủ đề:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *