Điều 99 Luật thi hành án dân sự.

Thi hành án dân sự bao gồm các hoạt động như cấp, chuyển giao bản bản án, quyết định dân sự; giả thích bản bản án, quyết định dân sự, tự thi hành án của người phải thi hành án; gửi đơn yêu cầu thi hành án; ra quyết định thi hành án; ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án; ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án; quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, tổ chức cưỡng chế thi hành án… Luật thi hành án dân sự hiện hành có 183 điều. Vậy Điều 99 Luật thi hành án dân sự quy định về vấn đề gì? Hãy cùng Zluat tìm hiểu bài viết dưới đây.

Điều 99 Luật thi hành án dân sự
Điều 99 Luật thi hành án dân sự

Điều 99 Luật thi hành án dân sự

Điều 99. Định giá lại tài sản kê biên

  1. Việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
  2. a) Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 98 của Luật này dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản;

b)[58] Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Yêu cầu định giá lại chỉ được thực hiện một lần và chỉ được chấp nhận nếu đương sự có đơn yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm định giá và phải nộp ngay tạm ứng chi phí định giá lại tài sản.

  1. Việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 98 của Luật này.

3.[59] Giá thẩm định lại được lấy làm giá khởi điểm để bán đấu giá theo quy định.

Định giá, định giá lại tài sản kê biên là gì?

Định giá tài sản kê biên là một trong những biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được quy định tại Mục 6 Chương III Luật thi hành án dân sự 2008, do đó, định giá, định giá lại tài sản kê biên mang đầy đủ những đặc điểm của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Theo đó, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án. Biện pháp cưỡng chế thi hành án có những đặc điểm như sau:

+ Thứ nhất, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của nhà nước. Việc cưỡng chế thi hánh án nói chung và cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Người được thi hành án không có quyền tự mình dùng sức mạnh để buộc người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của toà án.

Ở nước ta, thẩm quyền tổ chức thi hành án dân sự thuộc về các cơ quan thi hành án dân sự của nhà nước. Do vậy, khi cần thiết phải cưỡng chế để thi hành án thì chỉ có chấp hành viên đại diện cho cơ quan thi hành án dân sự mới là chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế và lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp. Tuy vậy, theo xu thế xã hội hoá thi hành án dân sự, việc cưỡng chế thi hành án dân sự nhà nước cũng có thể giao cho chủ thể khác không thuộc cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc cưỡng chế.+ Thứ hai, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của toà án. Trong thi hành án dân sự, các đương sự có quyền tự định đoạt, do vậy nhà nước luôn khuyến khích các đương sự trong việc tự nguyện thi hành án. Việc người phải thi hành án tự nguyện thi hành án trước khi người được thi hành án có đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án là thể hiện của tinh thần thượng tôn pháp luật và là một cách hành xử văn minh. Tuy vậy, thực tế thi hành án dân sự cho thấy không phải tất cả các bản án, quyết định của toà án sau khi có hiệu lực pháp luật đều được người phải thi hành án tự nguyện thi hành.

Trong những trường hợp này, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án được xem là giải pháp cuối cùng và cần thiết nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án của họ, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người được thi hành án và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật trước thái độ không chấp hành án của người phải thi hành án.

+ Thứ ba, đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi của người phải thi hành án. Khác với cưỡng chế thi hành án hình sự, đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án hình sự là quyền tự do thân thể hoặc tính mạng của con người còn đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ là tài sản hoặc hành vi của người phải thi hành án.

Theo quy định tại Điều 71 Luật thi hành án dân sự 2008, các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lí tiền, giấy tờ có giá; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lí tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, quyền tài sản; buộc phải thực hiện hoặc không được thực hiện hành vi nhất định đều không nhằm mục đích trừng trị người phải thi hành án mà chỉ nhằm mục đích buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ dân sự của mình đối với người được thi hành án.

+ Thứ tư, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, người bị áp dụng ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do toà án tuyên họ còn phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự. Người phải thi hành án có bổn phận thi hành các nghĩa của họ đã được xác định trong bản án, quyết định. Việc người phải thi hành án không tự nguyện thi hành nghĩa vụ thi hành án của họ dẫn tới việc chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án là do lỗi của họ. Do vậy, họ phải có trách nhiệm gánh chịu các phí tổn phát sinh từ việc tổ chức cưỡng chế thi hành án.

+ Thứ năm, các biện pháp cưỡng chế được chấp hành viên quyết định áp dụng không những có hiệu lực đối với người phải thi hành án dân sự mà còn có hiệu lực cả đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.

Quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là quyết định được chấp hành viên ban hành nhằm mục đích thi hành các bản án, quyết định của toà án được tuyên nhân danh quyền lực nhà nước nên mọi chủ thể liên quan đến thi hành án dân sự phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định này. Ví dụ, theo quy định tại Điều 78 Luật thi hành án dân sự 2008, khi chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án thì cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi trả thu nhập cho người phải thi hành án cũng phải thực hiện quyết định này. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến thi hành án không thi hành quyết định này thì phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước.

Trên đây, Zluat đã giúp bạn tìm hiểu về Điều 99 Luật Thi hành án dân sự. Trong quá trình tìm hiểu, nếu có câu hỏi thắc mắc xin vui lòng liên hệ website của Zluat để được giải đáp nhé

 

✅ Dịch vụ thành lập công ty ⭕ Zluat cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc
✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh ⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình
✅ Dịch vụ ly hôn ⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn
✅ Dịch vụ kế toán ⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật
✅ Dịch vụ kiểm toán ⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác
✅ Dịch vụ làm hộ chiếu ⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *