Quy định về vấn đề Hôn nhân gia đình của Bộ Luật Hồng Đức.

1. Khái quát các quy định của Luật Hôn nhân – Gia đình Hồng Đức về 

 Luật Hồng Đức là tên gọi chung của Bộ Quốc triều hình luật hay Hình luật triều Lê, bộ luật chính thức của  nước Đại Việt thời Lê sơ, hiện còn được lưu giữ đầy đủ. Vì luật của các triều đại phong kiến ​​Việt Nam được gọi là Quốc triều hình luật nên ở đây chúng tôi lấy tên  Luật Hồng Đức làm tên bài, tuy không phải là tên  chính thức. 

 Có thể coi đây là một bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như:  luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình, luật hành chính,…  

 Các nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực luật hôn nhân  là: hôn nhân không tự do, chế độ đa thê và thiết lập hệ thống gia đình phụ hệ. Nó thể hiện lễ giáo Nho giáo, nề nếp gia đình – xã hội phong kiến ​​nhưng vẫn có những điểm tiến bộ.  

 Trong lĩnh vực hôn nhân, pháp luật  điều chỉnh các quan hệ như tảo hôn, đổ vỡ hôn nhân (do chết hoặc ly hôn). 

 

 2. Điều Lệ Hôn Nhân 

 Về quan hệ hôn nhân, luật quy định rõ điều kiện  kết hôn là: được sự đồng ý của cha mẹ (điều 314), không được kết hôn giữa những người ruột thịt (điều 319), không được kết hôn trong thời gian cha, mẹ hoặc chồng để tang (điều 317), không được kết hôn khi ông, bà, cha, mẹ đang ở tù, đang ở tù  (điều 318), quy định anh, chị, em lấy vợ khác góa bụa (điều 3) 16, 323, 334, 338, 339. Tuy nhiên, Quốc triều hình luật không quy định tuổi kết hôn, mặc dù trong Thiên Nam Dư Hạ (phần  Hồng Đức giá hôn) có viết: “Trai đủ 18 tuổi,  gái đủ 16 tuổi  có thể lấy vợ”, có thể do cùng thời có một văn bản khác  quy định như vậy. Luật Hồng Đức cũng quy định  hình thức, thủ tục kết hôn như đính hôn, kết hôn (các điều 314, 315, 322). Lưu ý rằng Tòa án hình sự quốc gia chứng nhận hôn nhân có giá trị pháp lý từ  lễ đính hôn. Ví dụ, Điều 315 quy định: Nếu cưới cô gái đã nhận  lễ vật rồi không cưới nữa thì phải nộp phạt 80 trượng… Còn cô gái thì phải lấy người đến hỏi trước. Tuy nhiên, nếu trong thời gian từ lễ đính hôn  đến lễ cưới, một trong hai bên bị tàn tật hoặc phạm tội thì bên kia có quyền từ bỏ việc kết hôn.  

 3. Chấm dứt hôn nhân 

  Quốc triều hình luật quy định các trường hợp ly hôn  là: một trong hai người  chết hoặc ly hôn. 

 Đối với việc hôn nhân tan vỡ do một trong hai bên vợ hoặc chồng chết, cần lưu ý rằng quan hệ hôn nhân không thực sự chấm dứt ngay trừ khi người chết là vợ, còn nếu  chồng chết thì phải sau khi hết tang chế mới chấm dứt. Quy định này được quy định gián tiếp tại Điều 2 và Điều 320. 

  Về các vụ án ly hôn, có ba nhóm: 

 Buộc  ly hôn (điều 317, 318, 323, 324, 334) do  vi phạm  quy định cấm kết hôn.  Ly hôn do lỗi của  vợ: Điều 310 quy định  chồng phải ly hôn khi  vợ có hành vi bất hiếu (cắt đứt mọi quan hệ hôn nhân) như vô sinh, ghen tuông, bệnh tật (các bệnh như hủi, hủi), dâm ô, bất hiếu với cha mẹ, nói tục, trộm cắp.  Ly hôn do lỗi của  chồng: Điều 308 quy định: “Chồng đã  5 tháng không đi lại với vợ (vợ tố cáo với dân cử địa phương và dân cử cấp xã  làm chứng) thì mất vợ”. Việc quy định như vậy đã bảo đảm quyền lợi của  phụ nữ  và quan trọng hơn, nó còn trở thành cơ sở để người chồng  thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với vợ và gia đình. Đây là một quy định quan trọng thể hiện sự sáng tạo của nhà lập pháp nhằm duy trì ổn định trật tự  gia đình.  

4. Mối quan hệ gia đình 

 Trong lĩnh vực quan hệ gia đình, pháp luật  điều chỉnh các quan hệ như quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa những người thân thích khác (vợ cả – vợ lẽ, anh – em, cha mẹ nuôi, con nuôi, trưởng tộc, chủ hộ). 

 Quan hệ vợ-chồng: Phong tục tập quán và lễ nghĩa Nho giáo đã điều chỉnh quan hệ vợ-chồng, tuy nhiên Quốc triều hình luật cũng có các quy định nhằm điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ nhân thân như: Nghĩa vụ phải chung sống tại một nơi và phải có trách nhiệm với nhau (các điều 321 và 308, 309), không được ngược đãi vợ (điều 482), nghĩa vụ chung thủy (điều 401, 405), nghĩa vụ để tang nhau (các điều 2, 7).  

 Quan hệ cha mẹ-con cái: Đề cập tới các nghĩa vụ và quyền nhân thân của con cái, bao gồm: nghĩa vụ phải vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà (khoản 7 điều 2), nghĩa vụ chịu tội roi, trượng thay cho ông bà, cha mẹ (điều 38), nghĩa vụ không được kiện cáo ông bà-cha mẹ (điều 511), nghĩa vụ che giấu tội cho ông bà, cha mẹ (các điều 9, 504), ngoại trừ trường hợp cha mẹ hay ông bà phạm các tội mưu phản, mưu đại nghịch, cha mẹ nuôi giết con đẻ hay mẹ đẻ-mẹ kế giết cha thì được phép tố cáo và nghĩa vụ để tang ông bà-cha mẹ (điều 2). 

  Quan hệ nhân thân khác: Đề cập tới quan hệ giữa vợ cả-vợ lẽ (các điều 309, 481, 483, 484) và nhà chồng, anh-chị-em (các điều 487, 512), nuôi con nuôi (các điều 380, 381, 506) và vai trò của người trưởng họ (điều 35).  

 Trong quan hệ vợ cả-vợ lẽ thì ngoài các quy định về các nghĩa vụ của họ với chồng và nhà chồng thì họ cũng phải tuân thủ trật tự thê thiếp và vợ cả nói chung được ưu tiên hơn. Về quan hệ anh-chị-em thì người anh trưởng có quyền và nghĩa vụ đối với các em, nhất là khi cha mẹ đã chết, đồng thời cũng bảo vệ sự hòa thuận trong gia đình (phạt nặng đánh lộn, kiện cáo nhau). Việc nhận  con nuôi phải được lập thành văn bản và phải được coi như con đẻ, ngược lại con nuôi phải có nghĩa vụ như con đẻ đối với cha mẹ nuôi. 

  5. Quy định về bình đẳng giới 

 Luật Bình đẳng giới (Điều 5) định nghĩa: Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện, cơ hội phát huy năng lực của mình vì sự phát triển của cộng đồng,  gia đình và được hưởng lợi như nhau từ thành quả của sự phát triển đó. Mục tiêu của bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử theo giới, tạo cơ hội bình đẳng cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng  thực sự giữa nam và nữ, thiết lập và tăng cường quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. 

  Vấn đề bình đẳng giới cũng  được các nhà nước phong kiến ​​Việt Nam quan tâm, thể hiện trong sự phản ánh của pháp luật về các giá trị con người và quyền con người, dẫn đến các quy định của Bộ luật Hồng Đức. Bộ luật này gồm 13 chương, 722 điều được ban hành dưới thời vua Lê Thánh Tông (1470-1497). Trong  luật này có  một nội dung lớn là bênh vực và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, thể hiện quan điểm bình đẳng giới  vẫn còn phù hợp và cần được kế thừa, nghiên cứu. 

 Thứ nhất: quyền kết hôn được nhà nước bảo vệ  

 Để thực hiện quyền này, bộ luật Hồng tước quy định  nhiều  điều kiện mà  nam nữ  khi kết hôn phải tôn trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của  phụ nữ, trong đó điều 338 quy định: “Người có quyền thế mà uy hiếp  con gái nhà nghèo thì bị hình, biếm hoặc đồ nhi” (tiểu sử có thể  hiểu là một hình thức  hạ thấp địa vị của người bị bắt; tất cả công việc là một sự giam cầm). đã lấy vợ tương lai) mà  không cưới thì  phạt “80 trượng”, lấy người khác  đã có chồng thì phạt tội “phu thê”, người sau biết nếu lấy lại cũng bị phạt tội “đồ chó đẻ”, cô gái này phải lấy người đến hỏi trước, nếu người này không lấy nữa thì nhà  gái phải tự mình bồi thường tiền đính hôn. Căn nhà. Điều 333 ghi: Nếu lấy một cô gái, sau này vì  chồng nghèo mà lấy về, sẽ bị  phạt “60 trượng”,  hai mươi bốn năm, cô gái này phải  về nhà chồng.  

 Tất cả những người đàn ông vẫn biết  họ và kết hôn với họ đều bị lên án là “đĩ”. Ngoài ra, các Mục 308, 309, v.v. cũng đòi hỏi người chồng phải luôn yêu thương  vợ, đảm bảo hạnh phúc  gia đình. 

  Thứ hai: quyền ly hôn của phụ nữ 

 Như điều 308 của luật Hồng Đức đã ghi rõ: Nếu chồng bỏ  vợ 5 tháng không đi lại (người vợ trình báo với chính quyền địa phương, có quan xã làm chứng) thì người chồng đó sẽ mất vợ. Nếu bạn đã có con, hãy gia hạn thêm một năm. Nếu anh ta bỏ vợ và ngăn cản  người khác lấy vợ cũ của anh ta, anh ta sẽ bị trừng phạt. Điều 309 quy định: Ai quá yêu người giúp việc mà thờ ơ với vợ sẽ bị phạt tội “đồ chó đẻ”. Hơn nữa, mọi hành vi gian dâm đều bị trừng phạt nghiêm khắc với  hình phạt rất nặng.  

 Chồng không được bỏ vợ trong ba trường hợp: 

 – Người phụ nữ để tang nhà chồng được 3 năm; 

 – Khi lấy chồng nghèo nhưng sau giàu; 

 – Khi lấy vợ, vợ anh có gia đình, nhưng khi anh đi, anh không có gia đình để quay về.  

 Đồng thời, khi cả hai  vợ chồng để tang cha mẹ, vấn đề ly hôn  không nảy sinh. Trong trường hợp ly hôn, con  thường thuộc về người chồng, nhưng nếu người vợ muốn giữ con thì người vợ có quyền đòi  một nửa số con. Điều 167 – Hồng Đức Thiện Chính Thư – quy định rõ về hình thức ly hôn thuận tình: Việc thuận tình ly  hôn được lập dưới hình thức hợp đồng,  vợ và  chồng mỗi người giữ một bản. 

 Như vậy, cho thấy bên cạnh sự đồng ý của cha mẹ hoặc người thân thì sự đồng ý của con trai, con gái cũng là một yếu tố được nhà làm luật quan tâm. Sau khi việc ly hôn chấm dứt hoàn toàn, hai bên  có quyền kết hôn với người khác mà  pháp luật không cấm.  

 Thứ ba: Quyền sở hữu tài sản 

 Luật Hồng Đức quy định cụ thể tại các điều 374, 375, 376 tài sản của vợ, chồng gồm 3 nguồn: tài sản của chồng được thừa kế từ gia đình bên chồng; tài sản của  vợ được thừa kế của gia đình  vợ và tài sản do  vợ chồng tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là tài sản chung. Trong trường hợp ly hôn, tài sản của ai thì người đó sẽ nhận riêng và chia  tài sản chung của hai người. Khi chồng chết trước (hoặc vợ chết trước) thì tài sản  cha mẹ  cho được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho nhà chồng để lo việc cúng tế. Một phần dành cho người phối ngẫu để hỗ trợ suốt đời. Đặc biệt trong quyền thừa kế tài sản do cha mẹ để lại, pháp luật thời Lê không phân biệt con trai và con gái. Nếu cha mẹ mất cả hai thì lấy 1/20 phần ruộng đất của hương án giao cho  con trưởng giữ, phần còn lại chia đều cho các con (Điều 388); “Lư hương  có con  trưởng thì dùng con  trưởng, lư hương không có con  trưởng thì dùng con trưởng” (điều 391).  

 Thứ tư: Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phụ nữ phạm tội 

 Một trong những nguyên tắc kết án của Bộ luật Hồng Đức là nguyên tắc thiên vị phụ nữ. Khi nói đến hình phạt hoặc trừng phạt, các nhà lập pháp cho phép  phạm nhân nữ được áp dụng các mức án nhẹ hơn  nam giới hoặc được hưởng các đặc quyền. Ví dụ: Theo Điều 1, phạm nhân nam khi phạm tội  hoặc  phạm tội bao giờ cũng bị đánh bằng gậy, còn  phạm nhân nữ thì chỉ bị đánh đòn. Điều 680,  phạm nhân bị kết án tử hình hoặc phạm nhân mà  có thai thì phải đủ 100 ngày sau khi sinh  mới được xử tử hoặc đánh đòn. 

 Có một số tội  nếu  phạm tội là phụ nữ thì được giảm nhẹ, như  xử  tội  trộm, cướp tài sản: “Trộm có hung khí  thì phải cấu thành tội cướp tài sản; nếu là giết người, anh ta sẽ bị buộc tội giết người. Phụ nữ được ân xá” (điều 429) hoặc trường hợp đầy tớ ăn cắp của chủ, nếu là “đầy tớ thì được giảm tội” (điều 441) 

 Bộ luật Hồng Đức xử rất nặng  những trường hợp xâm hại thân thể  phụ nữ: nếu đánh phụ nữ thì hình phạt nặng hơn một bậc so với đánh người  bị thương. Nếu  người đàn bà bị giết thì tài sản của thủ phạm  phải được giao cho nhà của người  chết (điều 403).  

 Việt Nam thời Hồng Đức chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng Nho giáo, tuy tuân thủ  nghiêm ngặt  quan điểm của Nho giáo coi địa vị và vai trò của người vợ và người vợ bị coi thường, hạ thấp so với người nam và người chồng, nhưng trong bộ luật Hồng Đức có nhiều điều thể hiện sự nới lỏng các khuôn phép đối với vợ và vợ trong gia đình. Nhân phẩm  và các quyền cơ bản của  phụ nữ được ghi nhận, bảo vệ và thể hiện cụ thể trong Bộ luật Hồng Đức. Đó là di sản những giá trị truyền thống tốt đẹp, kế thừa  thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc, con người Việt Nam. Những điểm tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức chính là điểm mạnh đề cao giá trị nhân văn của truyền thống lập pháp Việt Nam. Những giá trị này có  ý nghĩa nhất định trong việc hoàn thiện các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, luật bình đẳng giới của nước ta hiện nay.

Bài viết cùng chủ đề:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *