Điều 482 bộ luật Hồng Đức
Bộ luật Hồng Đức (còn gọi là Quốc triều hình luật; Lê triều hình luật) là một bộ luật tiêu biểu và toàn diện nhất trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam. Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiên tiến, mang tính nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý toàn diện hơn so với các luật đương thời, có điểm tiếp cận với kỹ thuật pháp lý hiện đại. Bộ luật Hồng Đức đã trải qua một quá trình xây dựng lâu dài từ thời Lê Thái Tổ đến thời Lê Thánh Tông mới hoàn thành. Thực ra, Bộ luật này không phải do Lê Thánh Tông đặt ra, cũng không phải được xây dựng riêng vào những năm Hồng Đức (1470-1497), mà là sản phẩm của một giai đoạn phát triển cực độ của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam, đầu thời Lê. Công lao của vua Lê Thánh Tông là đã có công xây dựng các bộ luật của các triều đại trước để hoàn thành việc xây dựng bộ luật này. Các triều đại phong kiến thời Lê Trung Hưng (1533-1789) sau này vẫn lấy Bộ Luật Hồng Đức làm quy tắc mẫu mực, chỉ sửa đổi, bổ sung thêm một số điều khoản phụ cho thích hợp với hoàn cảnh xã hội đương thời. Bộ Luật Hồng Đức còn lại hiện nay (đã được các triều vua thời Lê Trung Hưng bổ sung thêm) gồm 13 chương, 722 điều, chia làm 6 quyển[1]:
Quyển 1 có 2 chương: Danh lệ 49 điều và Cấm vệ 47 điều;
Quyển 2 có 2 chương: Vi chế 144 điều và Quân lính 23 điều. Quyển 3 có 6 chương: Hộ hôn 60 điều; Điền sản 32 điều; Thủy tăng điền sản 14 điều; Tăng bổ hương hỏa 4 điều; Hựu tăng bổ hương hỏa 9 điều và Gian thông 10 điều;
Quyển 4 có 2 chương: Đạo tặc 54 điều và Đấu tụng 50 điều;
Quyển 5 có 2 chương: Trá ngụy 38 điều và Tạp luật 92 điều;
Quyển 6 có 2 chương: Bổ vong 12 điều và Đoán ngục 65 điều. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến tư tưởng tiến bộ, đặc biệt tính nhân văn sâu sắc, tính nhân đạo bao trùm lên những đối tượng “dễ bị tổn thương” hơn trong xã hội, đó là người già, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ đang mang thai,…Từ đó, liên hệ đến chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm hoàn thiện Bộ luật Hình sự năm 2015, với tư cách công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Thứ nhất, Bộ luật Hồng Đức mang nhiều tư tưởng tiến bộ, đi trước thời đại
Ra đời vào giữa thế kỷ XV, nhưng Bộ luật Hồng Đức đã đạt được giá trị và thành tựu nổi bật, có những đặc điểm tiến bộ và ưu thế hơn hẳn các bộ luật trước và cả sau nó. Thậm chí, nhiều yếu tố có tầm quan trọng rất lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta hiện nay. Tiến bộ nổi bật nhất mà các nhà nghiên cứu đề cập nhiều nhất là sự quan tâm đến địa vị, quyền lợi của người phụ nữ, tạo cho họ sự bình đẳng tương đối với nam giới trong xã hội và người chồng trong gia đình. Đây chính là yếu tố góp phần tạo nên tính đặc thù và tính tiến bộ trước thời hạn của luật này. Trong Bộ luật đã đề cập nhiều đến địa vị pháp lý của người phụ nữ – điều ít thấy trong các bộ luật phong kiến. Lý giải về nguyên nhân có sự coi trọng phụ nữ như vậy, nhiều ý kiến cho rằng phần lớn là do ảnh hưởng tư tưởng của Lê Thánh Tông. Ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn hệ tư tưởng Nho giáo với phong tục tập quán và truyền thống dân tộc, cuộc đời của vị vua này còn chịu ơn rất nhiều người phụ nữ như bà thứ phi Ngô Thị Ngọc Dao[2], bà Nguyễn Thị Lộ[3], … vì thế ông muốn bảo vệ người phụ nữ thoát khỏi sự khinh rẻ bị chà đạp thường xuyên trong xã hội phong kiến. Bộ luật Hồng Đức đã quan tâm bảo vệ những quyền cơ bản của con người. Mặc dù bị hạn chế bởi quan niệm giai cấp hẹp hòi, nhưng bộ luật này cũng đã đưa ra nhiều quy định bảo vệ con người, trong đó có cả việc bảo vệ những những ở tầng lớp dưới trong xã hội, như bảo vệ quyền dân chủ tự do của dân đinh, có nhiều điều quy định các hình phạt cụ thể chống lại sự nô tỳ hoá đối với dân đinh, đặc biệt là trong đó không có sự phân biệt về địa vị xã hội và bảo vệ danh dự, nhân phẩm con người. …
Trong lĩnh vực pháp luật, Bộ luật hồng Đức cũng có những tiến bộ vượt trội so với thời đại, đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng quan lại, những điều luật liên quan đến quan tướng các cấp chiếm trên 50% tổng số điều luật về quy định về tội phạm, quy định về tội phạm rất tỉ mỉ, chi tiết làm tăng tính hiệu lực của bộ luật, các loại tội phạm được quy định khác nhau, tuy tội phạm này không cùng xâm hại một khách thể nhưng lại có liên hệ với nhau và được phân theo nhóm, nên rất thuận tiện cho việc xét xử. Tuy ra đời cách đây hơn 500 năm, nhưng Bộ luật Hồng Đức đã quy định được gần như tất cả các tội danh cơ bản theo luật hình sự hiện đại. “Lê Triều Droit Pénal” rất chú trọng đến việc bảo vệ các mối quan hệ gia đình. Có lẽ những “nhà lập pháp” thời đó đã ý thức rất rõ vai trò quan trọng của gia đình – hạt nhân của xã hội. Đồng thời cũng cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của hệ tư tưởng Nho giáo đối với nền chính trị – xã hội Đại Việt lúc bấy giờ. Có thể nói Đức Code Red đã có nhiều thành tích xuất sắc, tiến bộ vượt thời gian. Sự phát triển mạnh mẽ của bộ máy trung ương tập quyền phong kiến đầu thời Lê sơ càng được khẳng định tính bền vững của nó với sự ra đời của “Hình luật triều Lê” vào năm 1483 vào cuối thời Lê sơ thịnh trị[4]. Thứ hai, tính nhân đạo của Bộ luật Hồng Đức
Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng Bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nô tì, người cô quả, tật … Nhiều quy định của Bộ luật tập trung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại. Đặc biệt, Bộ luật này còn có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia…
Tính dân tộc thể hiện đậm nét trong việc kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật của các triều đại trước, kết hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến Trung Hoa để xây dựng lên một bộ luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam. Ngày nay, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật, người già yếu… được xếp vào nhóm “đối tượng dễ bị tổn thương” cần có sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng thì hơn 500 năm trước, trong Bộ luật Hồng Đức đã có những quy định về trách nhiệm của xã hội, nhất là của quan chức đối với nhóm người này. Đây chính là một trong những điểm tiến bộ, nhân đạo của pháp luật thời Hậu Lê[5]. Một là, tính nhân đạo đối với người phạm tội
Điều luật đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Điều 16, mà theo đó, những người phạm tội từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những kẻ phế tật (tức những kẻ si, câm, cơ thể què quặt, gẫy tay chân) phạm tội lưu, đồ trở xuống được chuộc bằng tiền; 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và những kẻ bệnh nặng (là những ác tật như điên cuồng, tay chân bại liệt, mù hai mắt) phạm tội phản nghịch, giết người, đáng lẽ phải xử tử thì trong trường hợp này phải tâu lên để vua quyết định. Những người này phạm tội trộm cắp, đánh người bị thương, cũng sẽ đền tội; 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù phạm tội tử hình cũng không áp dụng hình phạt nào. Xử lý tội phạm, Điều 17 Bộ luật Hồng Đức cũng chú ý đến thời điểm thực hiện tội phạm sao cho có lợi cho tội phạm khi áp dụng pháp luật, đó là “khi phạm tội chưa già cũng chưa tàn tật”. Khi chúng cũ hoặc không hợp lệ, chúng sẽ bị trừng phạt theo luật cũ và không hợp lệ. Khi còn trẻ, họ phạm tội; khi còn nhỏ mới phát hiện ra tội ác của mình thì sẽ bị trừng phạt theo luật thuở ấu thơ. Nghiêm cấm áp dụng hình thức xét hỏi đối với một số chuyên đề, câu hỏi liên quan đến người làm chứng. Điều 665 quy định: “Những người đáng được xét giảm nhẹ tội như người từ 70 tuổi trở lên, người từ 15 tuổi trở xuống, người tàn tật không được hỏi cung mà chỉ căn cứ vào lời khai của nhân chứng để định tội. Nếu vi phạm điều luật này thì bị coi là cố ý buộc tội. Luật nói rằng mọi thứ có thể được giấu kín với nhau, chẳng hạn như những người từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và những người bị bệnh nặng không được phép buộc họ làm chứng. Trong một số trường hợp, pháp luật nghiêm cấm việc đối xử thô bạo với người bị giam, chẳng hạn như trường hợp người bị tạm giữ bị ốm thì không được hỏi cung, cụ thể Điều 669 quy định: “…Nếu người bị tạm giữ mắc bệnh ung thư, không đợi khỏi bệnh thì việc hỏi cung sẽ dẫn đến việc người ra lệnh xử tử. Người tù bị bệnh nếu bị đánh bằng roi hoặc gậy thì bị phạt 30 đơ-ni-ê, và nếu chết thì bị chế nhạo hai phần tư…”. Theo điều 697, trường hợp phải nộp tiền cho tang vật bị tịch thu, nhưng tội nhân nghèo khổ cùng cực không nộp được, thì được nộp một bản, cho nơi đó trình cáo lên vua quyết định. Ngoài ra, để ngăn chặn việc ngược đãi tù nhân một cách thô bạo và bảo vệ các quyền cơ bản của họ, Điều 707 quy định: “Người nào tra tấn tù nhân mà không gây thương tích thì bị pháp luật trừng phạt tội đánh người bị thương”. Trường hợp bớt xén quần áo, cơm, thức ăn của tù nhân thì căn cứ vào khoản giảm giá này mà định tội trộm cắp; hoặc đánh đập, bớt phần gạo, tù chết thì xử tội hoặc lưu. Cán bộ trại giam, quản giáo biết sự việc mà không khai báo cũng bị xử cùng tội danh nhưng giảm một bậc”.
Đối với những hộ có hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa, chính quyền địa phương nên có nhiệm vụ giúp đỡ họ. Điều 294 quy định: “Ở các khu phố, ngõ phố, kinh thành hoặc thôn xã có người ốm đau không người chữa, nằm dọc đường, cầu, điếm, chùa, quán thì cho quan lại các khu, xã đó dựng lều cho họ ở, nuôi dưỡng, săn sóc, cấp ăn cho họ. Tiếc thay người quá cố, bề trên dù chôn cất cũng không được để hài cốt lộ thiên. Nếu vi phạm lệnh này, người lãnh đạo huyện, xã sẽ bị bãi chức hoặc cách chức…”. Một số đối tượng khác cũng cần được giúp đỡ là “góa phụ, người góa bụa neo đơn, người tàn tật nặng, người nghèo không người thân nương tựa, không có khả năng lao động kiếm sống, chính quyền địa phương phải cưu mang, nếu bỏ rơi sẽ bị đánh 50 roi/quý. Nếu được cho cơm ăn áo mặc mà ăn ít thì bị phạt theo luật thương gia ăn trộm của công. Thứ ba, các quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ và trẻ em
Đối với phụ nữ, quyền của chủ thể này được đề cập chủ yếu trong hai chương “Hôn nhân gia đình” và “Tài sản” với những quy định thể hiện sự tôn trọng cá nhân và vai trò của phụ nữ cũng như bảo vệ quyền của họ về hương, lễ, thừa kế và tài sản. Theo tục lệ, người vợ phải phụ thuộc vào chồng, nhưng trong bộ luật Hồng Đức, địa vị của người vợ có sự độc lập nhất định như họ có quyền có tài sản riêng, có quyền yêu cầu ly hôn trong một số trường hợp nhất định, chẳng hạn tại điều 308 quy định: “Chồng ly thân 5 tháng thì vợ được nộp cho quan địa phương, xã quan làm chứng, thì chồng mất vợ. Nếu bạn đã có con, bạn có thể gia hạn thêm một năm nữa. Các quan đi xa không thi hành luật này. Nếu anh ta đã bỏ vợ và ngăn cản người khác lấy vợ cũ của anh ta, anh ta sẽ bị chế nhạo. Trường hợp ép phụ nữ lấy chồng cũng là tội phạm, theo Điều 320: “Chồng chưa lấy chồng mà vợ đã bí mật, nếu người nào không phải là ông bà, cha mẹ hoặc bất kỳ người nào khác cố lấy người phụ nữ đó thì bị bức hại và buộc phải ly hôn. Trả vợ cho chồng cũ…” hoặc quy định tại Điều 338: “Kẻ nào uy hiếp để lấy con gái của ‘thường dân thì bị trừng phạt, nhạo báng hoặc nhục hình'”. Khi xảy ra ly hôn, pháp luật xác định tài sản của vợ, chồng được hình thành từ 3 nguồn: i) Tài sản của chồng được thừa kế từ gia đình chồng; (ii) Tài sản của vợ được thừa kế từ gia đình của vợ; (iii) Tài sản chung do vợ, chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Khi gia đình tồn tại thì mọi tài sản được coi là tài sản chung; Trong trường hợp ly hôn, tài sản của ai thì người đó sẽ nhận riêng và chia tài sản chung của hai người. Điều 403 và 404 của Bộ luật Hồng Đức quy định những hình phạt rất nghiêm khắc đối với những trường hợp can thiệp vào thân thể và trinh tiết của người phụ nữ. Ai “vi phạm sẽ bị bỏ tù hoặc chết”. Sám hối phải được trả nhiều hơn một bậc so với tội gian dâm thông thường. Nếu bạn gây thương tích cho phụ nữ, hình phạt nặng hơn một bước so với đánh người bị thương. nếu giết phụ nữ thì tài sản của thủ phạm phải trả lại nhà người chết”; “Việc giao cấu với một bé gái từ 12 tuổi trở xuống, ngay cả khi cô ấy đồng ý, vẫn bị coi là hiếp dâm.” Theo Điều 482, nếu “chồng đánh vợ bị thương thì xử như tội đánh người bị thương nhưng nhẹ hơn 3 bậc. Nếu đánh chết thì xử như tội đánh chết, nhưng nhẹ hơn 3 bậc thì tội chung thân giảm 3 phần. nhẹ tội hơn đánh vợ 2 bậc…” Trường hợp phụ nữ có vụ án liên quan đến xét xử hoặc bị kết tội thì vẫn được bảo vệ ở mức độ nào đó, Điều 409: “Quản ngục, quản giáo, cai ngục tốt mà thông dâm với đàn bà, gái đã qua xử án thì tội nặng hơn tội thông dâm thông thường. Nếu có sự thống nhất thì giảm 3 bậc tội cho các ngăn bổ sung này. Nếu vi phạm, họ sẽ không bị trừng phạt. Cụ thể tại điều 680: “Phụ nữ phạm tội tử hình trở xuống, nếu có thai, thì phải đợi 100 ngày sau khi sinh con mới được thi hành án. Nếu anh ta không được sinh ra và bị xử tử, các quan chức nhà tù sẽ bị chế giễu trong hai mươi bốn năm và nhà tù sẽ bị trừng phạt bởi những kẻ phạm tội. Ngay cả khi anh ta được sinh ra nhưng chưa đủ 100 ngày, nếu anh ta hành quyết anh ta, các quan lại và nhà tù sẽ bị chế giễu hoặc trừng phạt. Nếu chưa ra đời mà phạm tội đánh roi, quan ngục phạt 20 quan, giám ngục bị đánh 80 trượng. Nếu đòn roi dẫn đến trọng thương hoặc chết người thì xử tội “thừa thãi” (vô ý làm chết người, làm bị thương người)…”. Những kẻ ăn cắp của chủ, nếu là “đầy tớ thì được giảm nhẹ tội”. Luật cũng quy định một số vấn đề khác liên quan đến phụ nữ như cấm “dùng thuốc phá thai để gây sảy thai, người xin thuốc phá thai cũng bị xử phạt. nếu có người chết vì uống thuốc thì người cho thuốc sẽ bị xử theo tội giết người” (điều 424). Đối với một số tội, mức hình phạt đối với nữ còn nhẹ hơn nam, chẳng hạn Điều 450 quy định: “…Người lạ vào vườn thì bị nhạo báng, nữ thì giảm một bậc”. Ngoài việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, Bộ luật Hồng Đức còn quan tâm đến trẻ em, Điều 313 quy định: “Trẻ em mồ côi và phụ nữ bán không có người bảo lãnh, người mua, người viết giấy tờ và người làm chứng đều bị pháp luật đánh đòn (nữ bị đánh 50 trượng, nam bị đánh 80 trượng) để yêu cầu người mua trả lại tiền, hủy bỏ giấy tờ”. Những người cô đơn và cơ cực từ 15 tuổi trở lên được phép tự nguyện bán mình. Theo Điều 605: “Ai bắt được trẻ em lang thang phải báo quan làm bằng chứng xác thực, nếu có người đến nhận thì được cấp dưỡng (5 quan mỗi tháng), trái với pháp luật không cho người nhận trẻ, hình phạt nhẹ hơn tội dụ dỗ” (Điều 604). Trong trường hợp ai đó “làm điều gian ác (bắt con đã mất, không nuôi nấng và hành hạ) khiến người ta chết, họ sẽ đánh họ 80 trượng và đền 5 nhân dân tệ bằng mạng sống của họ cho cha mẹ của đứa trẻ đã chết”. Thứ tư, nhân loại đối với các đối tượng khác
Các đối tượng này bao gồm người dân tộc thiểu số, nô lệ, người làm công ăn lương, giúp việc gia đình, người thiểu năng trí tuệ… Điều 435 nêu rõ hình thức xử lý đối với hành vi “ăn cắp quần áo, đồ dùng của trẻ em, người điên, người say sẽ bị phạt gấp đôi”. Điều 363 quy định: “Mua nô lệ mà không xuất trình giấy tờ cho quan tòa mà tự ý xăm chữ lên mặt nô lệ thì bị phạt 10 đơ-ni-ê”. Nếu “nô lệ bị đưa về làm công ăn lương và được cấp giấy tờ mà vẫn bắt ở lại làm đầy tớ với mình thì bị phạt roi 50 trượng, một phần tư. Nô lệ vẫn được trở về theo giấy tờ” (điều 291). Điều 490 quy định nô tỳ có tội, chủ nhân không nói với quan mà đánh chết, thì bị phạt ba phần tư. Những nô lệ này không có tội nhưng nếu bị đánh chết sẽ bị trừng phạt. Giết nô lệ bị bắt trên đường hoặc từ mồ mả nghiêm trọng hơn tội phạm ở một cấp độ. Nô tỳ làm bậy, dạy lỡ tay đánh roi cho chết, hoặc vô ý giết người thì tùy nặng nhẹ mà trừng trị… Đối với các dân tộc thiểu số, Bộ luật Hồng Đức cũng có một số điều quy định, đặc biệt là để bảo vệ họ khỏi bị quan lại sách nhiễu, như cấm quân canh cửa khi thấy “thương nhân và người Man Liêu qua cửa xin tiền thì bị chế nhạo hai lần”. Nhà chùa phải đền gấp đôi” (điều 71) hay theo điều 163 quy định khi chiêu mộ dân Man Liêu mà tự ý phá nhà lấy gia súc, tài sản của dân thì bị khép vào tội phỉ báng hoặc cướp bóc và phải bồi thường gấp đôi số tiền đã nộp cho dân. Nếu làm trái lệnh quan trên “đòi tịch thu sản vật của người Man Liêu, thì giam ở ngoài, phạt gấp đôi tang vật” (điều 531), còn nếu “thu thuế của người Man Liêu mà không trình vua, thì bị phạt một quan” (điều 595). Xử lý tội phạm đối với đồng bào dân tộc thiểu số cũng có những xem xét nhẹ hơn, áp dụng phong tục tập quán của họ. Điều 40 quy định: “Người miền núi (núi) mà phạm tội với nhau thì xử theo phong tục của nước đó. Người miền núi mà phạm tội với người miền trung (đồng bằng) thì xử theo pháp luật.” Tội cướp của giết nhau thì nhẹ hơn tội cướp của giết người, hòa thuận với nhau cũng cho” (điều 451); tội quan chức người Man Liêu tùy tiện xử lý tại quận mình, sai người khiêng quan tài đến bắt người hoặc uy hiếp thì phạt 40 trượng, 2 lạng” (điều 164); bắt tội phạm thuộc dân tộc thiểu số mà không báo cáo với quan tổng. của Man Liêu thì chịu án riêng (hồi 703). Thứ ba, giá trị tham khảo của Bộ luật Hồng Đức đối với việc hoàn thiện BLHS 2015 ở nước ta hiện nay
Luật pháp là một phần của kiến trúc thông thường của xã hội. Bất kỳ quốc gia có chủ quyền nào cũng coi ổn định chính trị là điều kiện đầu tiên của sự phát triển xã hội. Để làm được điều này, bên cạnh các yếu tố vật chất của quyền lực chính trị, cần phải hình thành một hệ thống pháp luật chặt chẽ, là công cụ bảo vệ nhà nước. Hiệu quả của hệ thống tư pháp khi đó trở thành thước đo cho sự ổn định của quốc gia, bởi nếu pháp luật nghiêm minh, thưởng phạt đúng người, xuất phát từ lợi ích chung, bảo đảm tính “chính danh” của mọi quan hệ xã hội, mọi thứ bậc thì sẽ góp phần làm cho bộ máy nhà nước vận hành trơn tru, trên dưới thuận hòa. Trong trường hợp này, lợi ích của lực lượng thống trị trong xã hội đồng nhất với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Sự đồng thuận này có ý nghĩa tích cực ở chỗ, chẳng hạn nếu xảy ra các sự kiện ảnh hưởng đến toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, các lực lượng xã hội sẽ được huy động tối đa, trở thành lực lượng không thể ngăn cản, xuất phát từ nhận thức về mục tiêu chung. Pháp luật của nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội này. Rõ ràng, đó là luật bảo vệ chế độ phong kiến. Những điều luật được viết trong bộ luật hình sự nhà Lê thực chất xuất phát từ ý chí của vua Lê Thánh Tông, tuy gắn bó với thực tiễn cuộc sống nhưng về cơ bản chúng đều mang tư tưởng, tình cảm, quan niệm của Lê Thánh Tông cũng như tấm lòng nhân ái của vị vua lỗi lạc này. Nó đã được xác nhận trong một thời gian dài. Nguyên tắc cơ bản nhất và cũng là mục tiêu quan trọng nhất của Bộ luật Hồng Đức là bảo vệ và củng cố chế độ quân chủ phong kiến, quyền lợi của nhà nước, nhà vua và hoàng tộc. Những hành vi làm phương hại đến lợi ích, an ninh và hòa bình của Nhà vua, Hoàng gia và chính quyền đương thời sẽ bị coi là “tội ác”[6] với những hình phạt nghiêm khắc nhất. Các quy định về tội phạm và hình phạt trong lĩnh vực này được quy định rất cẩn thận và cụ thể, tập trung vào các chương: Danh dự, Điều cấm, Vi phạm, Trộm cắp, Ngụy trang và Báo chí. Bộ luật này cho biết có 8 “hạng dân” được nhà Lê đặc ân. Những người được liệt kê đầu tiên là những người trong hoàng tộc, những người thân cận của nhà vua, những người hầu của nhà vua và các quan chức triều đình (Điều 3). Theo luật này, nếu những người có tên trên phạm tội và bị kết án tử hình thì cơ quan nghị án phải trình lên Nhà vua xem xét, quyết định. Nếu phạm tội với mức hình phạt nhẹ hơn thì đều được giảm nhẹ theo quy định. Bộ luật Hồng Đức đã bảo vệ cơ sở kinh tế của xã hội phong kiến: bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất với quyền lợi của quan lại, quý tộc và địa chủ, bảo vệ chế độ sở hữu tối cao của nhà nước thông qua việc quản lý ruộng đất và thu thuế. Các chế định về đất đai được tìm thấy trong Quyển 3, chương về thừa kế (59 điều). Pháp luật bảo vệ nghiêm minh hệ thống nhà nước, nghiêm trị các hành vi đòi công, chiếm đoạt của công, che giấu của công (các điều 342, 343, 345, 346…). Đồng thời, pháp luật cũng bảo hộ quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai (các điều 356, 357, 358, 360, 378). Cấm quan lại có thế lực chiếm đoạt ruộng đất của tư nhân (Điều 370), nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền tư hữu như cấm lấn chiếm, lấn chiếm. Tất nhiên, Bộ luật này có nhiều quy định nhằm hạn chế sự kìm kẹp của các thế lực đối với tòa án (các điều 78, 168, 204, 208, 216, 230, 330, 337, 372); hạn chế lạm quyền (các điều 49, 150, 153, 163, 213, 675, 720), quy định quan lại phải tuyệt đối trung thành, tận tụy với vua (các điều 234, 236, 624, 625); Ngoài ra, để ngăn chặn nguy cơ tái xâm lược của nhà Minh, Bộ luật Hồng Đức có những quy định nghiêm khắc nhằm trừng phạt những kẻ thông đồng hoặc tiết lộ việc triều đình trong nước cho người nước ngoài (các điều 71, 612, 613), nghiêm cấm việc tùy tiện vượt biên, kiểm soát chặt chẽ việc buôn bán, v.v.
Chẳng hạn, trong Bộ luật Hồng Đức, nhiều điều ghi rõ trách nhiệm bảo vệ biên giới, vùng biển, cửa quan. Các cuộc tấn công vào an ninh và toàn vẹn lãnh thổ đều bị trừng phạt nghiêm khắc. Điều 71 của bộ luật này quy định: “Người nào trốn qua cửa khẩu mà đi nước khác thì bị chém”; Bọn trấn thủ (kể cả cửa biển) cũng không biết thì bị đày đi xa” hay “Kẻ nào bán đất biên ải cho ngoại bang thì bị tru di” (điều 74). Các quan chức khu phố và thị trấn biết rằng nếu họ không báo cáo tội phạm, họ sẽ giảm tội. Quản Lộ, phố huyện chịu chung tội với người bán hàng kia. Vô tình không biết, nên phạt biếm họa, phạt…
Vua Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm đến việc đắp đập, sửa đê để chống lụt. Bộ luật Hồng Đức quy định khá kỹ về việc này, đó là: “Việc sửa đê các sông lớn bắt đầu từ ngày 10 tháng giêng, dân các xã ở ven đê phải đến nhận đê, hạn hai tháng kể từ ngày 10 tháng 3. Đường đắp mới phải thi công trong vòng 3 tháng. Các quan phải thường xuyên đến lấy hàng, bọn đê điều phải dồn ép hàng ngày. Nếu không cố mà làm không xong thì quýt bị phạt, quýt cũng hiếm. Bộ đội, dân quân không đến làm việc đúng giờ, không chăm chỉ sửa chữa đê. Quan điểm “dân là gốc của nước” thể hiện trong bộ luật Hồng Đức cho thấy truyền thống này đã được Lê Thánh Tông kế thừa, thể chế hóa để bảo vệ quyền lợi của người dân. Tại Điều 370 và Điều 371 quy định rõ: “Kẻ quyền thế mà chiếm đoạt nhà, ruộng, ao, ao của nông dân từ 1 mẫu trở lên thì bị phạt, 5 sào trở lên thì bị phạt, quan từ 3 phẩm trở xuống phạm tội trở xuống thì bị phạt 2 mẫu và phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Đã nói rồi thì xử khác”, và “Ở huyện ta cai quản có hổ, sói, lợn rừng… hại dân, phá hoại mùa màng mà không có ý ngăn cản thì bị tội vu khống. Ai biết bắt hay thì tùy theo công nặng nhẹ mà thưởng”. Pháp luật của triều đình đòi hỏi người làm quan phải xử phạt công bằng, khách quan, không ép buộc, ép buộc người khác. Điều 683 quy định: “Tòa án, nơi bán, nơi luận tội phải viện dẫn toàn văn và thể thức của bộ luật, nếu sai thì bị trừng phạt. Sự phán xét theo ý muốn của anh ta bị chế giễu. Nếu nhiều hơn hoặc ít hơn, người đó sẽ bị trừng phạt theo pháp luật. Trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, cần tiếp thu, vận dụng và kế thừa những tư tưởng tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức vào thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015. Trong công cuộc đổi mới đất nước, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, trong đó có truyền thống thượng tôn pháp luật, lấy dân làm gốc có từ ngàn năm dựng nước và giữ nước là việc làm cần thiết của ông cha. Xét từ tính kế thừa của pháp quyền nước ta, được hình thành, có mối quan hệ lịch sử với các yếu tố pháp quyền trong tư tưởng cổ đại phương Đông, bài học trị nước bằng pháp luật kết hợp với văn hóa khoan dung, tinh thần nhân văn của dân tộc Việt Nam, trong đó không thể không kể đến Bộ luật Hồng Đức; tư tưởng hiện đại của phương Tây về nhà nước pháp quyền, đặc biệt là tư tưởng của các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ 18, quan điểm chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng kim chỉ nam cho chúng ta ngày nay. Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta khẳng định phải “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí”, đồng thời “thực hiện đồng bộ chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy dân chủ” và “giữ vững kỷ cương, kỷ cương trong xã hội”. Như vậy, sợi chỉ chung của truyền thống yêu nước Việt Nam thể hiện trong lịch sử cũng như trong hiện tại là đảm bảo ổn định xã hội vì lợi ích của đất nước, của nhân dân. tư pháp
1] Quốc triều hình luật – Viện Sử học, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1991
[2] Ngô Thị Ngọc Dao (1421 – 26 tháng 2 năm 1496), còn gọi là Quang Thục Hoàng thái hậu (光淑太后), là phi tần của Lê Thái Tông, mẹ của Lê Thánh Tông của nhà Hậu Lê. người làng Đồng Bằng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa (nay là xã Định Hòa, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Bà hết lòng quan tâm và cùng các con lo cho sự nghiệp của Hoàng đế, là một trong những chỗ dựa tin cậy của Lê Thánh Tông. Sử sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi rõ, chính bà đã không quản dặm dài, cùng Lê Thánh Tông mở cuộc tấn công Chiêm Thành, cuối năm 1470, đầu năm 1471. Năm 1496, ngày 26 tháng 2, Thái hậu qua đời, hưởng thọ 75 tuổi. Sau khi phụng thờ Lam Kinh, bà lâm bệnh nặng và qua đời tại điện Thừa Hòa. Thánh Tông thương tiếc, tôn bà làm Quang Thục thái hậu (光淑皇太后). [3] Nguyễn Thị Lộ (tiếng Trung: 阮氏路; sinh 1400 hoặc 1390 – mất 1442), người làng Hải Hồ (sau đổi là làng Hải Triều, tục gọi là làng Hới), tổng Thanh Triều, huyện Ngự Thiện, phủ Long Hưng (nay thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) là vợ thứ của Nguyễn Trãi và là một phụ nữ của triều Hậu Lê. Tên tuổi của bà từ lâu đã gắn liền với thảm án Lệ Chi Viên xảy ra vào năm Nhâm Tuất (1442) khiến vợ chồng bà phải chết và bản án tử hình dành cho gia đình. [4] Nguyễn Quốc Hoàn, Quốc triều hình luật, Giá trị pháp lý, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 2004, tr. 134. [5] Sổ tay Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật – Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2001, tr. 240-244
[6] Thập Ác: 10 tội ác nguy hiểm nhất như:
Các tội liên quan đến vương quyền: phản quốc, đại nghịch (điều 2, 411), mưu phản bạn (tội phản quốc – điều 412), đại bất trung (430, 431). Các tội trong quan hệ hôn nhân – gia đình: ác ý (Điều 416), bất hiếu (nhiều điều, giống Điều 475), bất lương, bất nghĩa, nội loạn. Tội gắn liền với tiêu chí đạo đức chủ yếu của Nho giáo: vô đạo đức (420 và 421). Nhóm tội phạm khác: gồm các tội về bảo vệ an ninh thân thể của nhà vua, nghi lễ tư pháp, tội xâm phạm trật tự công cộng, quản lý hành chính, nghi lễ tư pháp, tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tội phạm về quân sự, tội xâm phạm quyền sử dụng đất đai, tội xâm phạm hôn nhân, tội phạm gia đình và các tội phạm chế định pháp luật khác.