Trong thời gian thử việc mỗi bên có quyền gì? [2023].

Grey-And-White-Modern-Law-Firm-Service-Facebook-Cover-3.png

Thời gian thử việc là một trong những nội dung bắt buộc các bên phải thỏa thuận nếu có thử việc. Để tránh sự lạm dụng từ phía người sử dụng lao động, bảo vệ quyền lợi của người lao động, Nhà nước quy định chỉ thử việc một lần đối với một công việc, đồng thời ấn định thời gian thử việc tối đa tương ứng với từng nhóm công việc cụ thể. Vậy Trong thời gian thử việc mỗi bên có quyền gì? [2023] Hãy cùng Zluat tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây!

Người lao động thử việc nhưng ký kết hợp đồng lao động có đúng không?

Trong thời gian thử việc mỗi bên có quyền gì? [2023]

1. Khái niệm

Thử việc về bản chất là sự thỏa thuận tự nguyện của hai bên. Đây là quá trình các bên làm thử trong một thời gian nhất định nhằm đánh giá năng lực, trình độ, ý thức, điều kiện lao động, điều kiện sử dụng lao động…. trước khi quyết định ký kết hợp đồng lao động chính thức[1].

Theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Bộ luật Lao động (BLLĐ) 2012 thì thử việc là “việc người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ của hai bên trong thời gian thử việc. Nếu có thoả thuận về việc làm thử thì các bên có thể giao kết hợp đồng thử việc”. Quy định này khi đến với BLLĐ 2019 đã có một số sự thay đổi cơ bản, cụ thể tại khoản 1 Điều 24 BLLĐ 2019 thì thử việc là “việc người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc”. Như vậy, BLLĐ 2019 đã quy định một cách rõ ràng và cụ thể hơn so với BLLĐ 2012, cụ thể BLLĐ 2012 không có ghi nhận “nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động” mà chỉ ghi nhận “thỏa thuận thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc” nhưng BLLĐ 2019 đã ghi nhận rõ hơn về vấn đề này. Từ đó, có thể thấy rằng thử việc không mang tính bắt buộc áp dụng đối với người lao động mà do các bên tự nguyện thỏa thuận, mặc khác việc ghi nhận thử việc đầy đủ và rõ ràng tại BLLĐ 2019 sẽ là cơ sở giúp cho các bên thuận lợi trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của mình khi giao kết hợp đồng thử việc hoặc trực tiếp giao kết trong hợp đồng.

2. Loại hợp đồng thử việc

Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 BLLĐ 2012 thì người lao động làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ thì không phải thử việc. Cũng theo ghi nhận tại điểm c khoản 1 Điều 22 thì hợp đồng lao động theo mùa vụ là loại hợp đồng có thời hạn dưới 12 tháng.

Với quy định trên của BLLĐ 2012 thì BLLĐ 2019 đã có một số thay đổi sau:

Thứ nhất, BLLĐ 2019 không còn ghi nhận hợp đồng mùa vụ mà chỉ ghi nhận duy nhất 02 loại hợp đồng là hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động xác định thời hạn. Như vậy, BLLĐ 2019 đã chuyển hóa hợp đồng lao động theo mùa vụ thành hợp đồng lao động xác định thời hạn.

Thứ hai, BLLĐ 2019 đã rút ngắn thời gian không áp dụng thử việc và chỉ áp dụng không thử việc đối với trường hợp người lao động giao kết hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng, tuy nhiên trước đó BLLĐ 2012 đã quy định người lao động làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ dưới 12 tháng thì không phải thử việc.

3.Thời gian thử việc và kết thúc thời gian thử việc

Về thời gian thử việc

 theo quy định tại BLLĐ 2019 thì thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc một lần đối với một công việc và bảo đảm điều kiện sau đây: (i) Không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; (ii) Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên; (iii) Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật trung cấp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ; (iv) Không quá 06 ngày làm việc đối với công việc khác [5].

Về cơ bản BLLĐ 2019 đã kế thừa gần như nguyên vẹn về thời gian thử việc. Bên cạnh đó, BLLĐ 2019 đã có một số bổ sung rõ ràng hơn:

Thứ nhất, nếu như BLLĐ 2012 chỉ quy định thời gian thử việc căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc thì đến với BLLĐ 2019 đã có quy định thời gian thử việc “do hai bên thỏa thuận” căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc. Như vậy, BLLĐ 2012 trước đó không có quy định là thời gian thử việc là sẽ “do hai bên thỏa thuận” mà chỉ dựa vào tính chất và mức độ của công việc cũng như những điều kiện cụ thể nhưng tại BLLĐ 2019 đã bổ sung thêm đoạn “do hai bên thỏa thuận”. Chính điều này sẽ góp phần thể hiện ý chí giữa các bên trong quan hệ lao động và thể hiện sự linh hoạt, sự tự do giữa các bên, dù các bên có thỏa thuận nhưng cũng sẽ nằm trong khuôn khổ nhất định mà BLLĐ đã đặt ra.

Thứ hai, BLLĐ 2019 đã bổ sung thêm một trường hợp áp dụng đối với thời gian thử việc là “không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp”[6]. Như vậy, đây là một quy định hoàn toàn mới so với BLLĐ 2012 trước đó không có ghi nhận về vấn đề này.

Với quy định này, có thể nhận thấy rằng, người có chức danh quản lý doanh nghiệp thì thời gín thử việc không phụ thuộc vào trình độ học vấn, bằng cấp chuyên môn mà vào vị trí quản lý họ đảm nhiệm. Điều này là phù hợp vì người quản lý có quyền ra các quyết định và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy cần phải có thời gian đánh giá năng lực, sự thích ứng với vị trí mà họ đảm nhiệm [7].

4. Về kết thúc thời gian thử việc

BLLĐ 2019 quy định cụ thể như sau: (i) Khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải thông báo kết quả thử việc cho người lao động; (ii) Trường hợp thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết đối với trường hợp thỏa thuận thử việc trong hợp đồng lao động hoặc phải giao kết hợp đồng lao động đối với trường hợp giao kết hợp đồng thử việc; (iii) Trường hợp thử việc không đạt yêu cầu thì chấm dứt hợp đồng lao động đã giao kết hoặc hợp đồng thử việc; (iv) Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường [9].

BLLĐ 2019 đã có một sự thay đổi đáng kể và quy định chi tiết, rõ ràng hơn so với BLLĐ 2012. Cụ thể:

Thứ nhất, BLLĐ 2019 đã bổ sung quy định “Khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải thông báo kết quả thử việc cho người lao động”, việc bổ sung này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của người sử dụng lao động phải thông báo kết quả thử việc khi người lao động kết thúc thời gian thử việc. Về thông báo kết quả ở đây được hiểu là kết quả trong quá trình thử việc mà người lao động đã thử việc đã đạt yêu cầu hay chưa đạt yêu cầu và đây cũng là quy định sẽ giúp cho phía người lao động có thể biết cụ thể rõ ràng về quá trình mình thử việc và từ đó có thể chủ động đi tìm việc ở một nơi khác phù hợp hơn.

Thứ hai, đối với trường hợp thử việc đạt yêu cầu thì BLLĐ 2019 đã có bổ sung thêm “người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết đối với trường hợp thỏa thuận thử việc trong hợp đồng lao động hoặc phải giao kết hợp đồng lao động đối với trường hợp giao kết hợp đồng thử việc”, việc bổ sung này là xuất phát việc thay đổi quy định về thử việc, so với quy định tại BLLĐ 2012 thì thử việc chỉ có thể giao kết bằng hợp đồng thử việc riêng, còn BLLĐ 2019 cho phép có thể giao kết thỏa thuận trực tiếp trong hợp đồng lao động hoặc có thể giao kết hợp đồng thử việc riêng tùy thuộc vào ý chí thỏa thuận giữa các bên. Do đó, sự thay đổi này là phù hợp thể hiện sự thống nhất quy định tại khoản 1 Điều 24 BLLĐ 2019 và đồng thời thể hiện phạm vi không bị giới hạn bởi hợp đồng thử việc mà các bên có thể tùy ý lựa chọn miễn cảm thấy phù hợp và thuận tiện nhất trong quá trình giao kết.

Thứ ba, về trường hợp thử việc không đạt yêu cầu, theo quy định tại BLLĐ 2012 không quy định cụ thể về vấn đề này mà chỉ quy định đối với trường hợp thử việc đạt yêu cầu, do vậy nếu trường hợp thử việc không đạt yêu cầu thì có bị chấm dứt hay là không?  mà chỉ ghi nhận mang tính chung chung “trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận” và chính vì ghi nhận không rõ ràng nên có thể dẫn đến những phát sinh khi giải quyết tranh chấp và để khắc phục quy định trên thì BLLĐ 2019 đã bổ sung “nếu trường hợp thử việc không đạt yêu cầu thì chấm dứt hợp đồng lao động đã giao kết hoặc hợp đồng thử việc”. Với quy định này của BLLĐ 2019 đã góp phần hạn chế những tranh chấp giữa các bên khi xảy ra.

Thứ tư, về hủy bỏ thử việc, theo ghi nhận tại quy định BLLĐ 2012 thì trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận” có thể thấy rằng BLLĐ 2012 không quy định rõ là hợp đồng thử việc mà chỉ ghi nhận thuật ngữ chung là “thử việc” do vậy, để khắc phục vấn đề trên BLLĐ 2019 đã bổ sung là mỗi bên có quyền hủy bỏ “hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết” và bỏ các thuật ngữ “thỏa thuận” phía sau cụm từ “có quyền hủy bỏ” và bỏ đoạn “nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận”. Như vậy, từ các quy định trên, hủy bỏ thử việc là quyền của bên phía người lao động nếu sau khi họ thực hiện hợp đồng thử việc hoặc giao kết thử việc bằng hợp đồng lao động mà cảm thấy công việc không phù hợp với trình độ, chuyên môn và năng lực của bản thân thì người lao động sẽ có quyền hủy bỏ mà không cần phải có sự thỏa thuận như BLLĐ 2012 quy định và cũng không cần phải báo trước và bồi thường thiệt hại.

5. Tiền lương thử việc

Theo quy định tại Điều 28 BLLĐ 2012 và cũng như theo quy định tại Điều 26 BLLĐ 2019 thì tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.

Như vậy, quy định về tiền lương thử việc giữa BLLĐ 2012 với BLLĐ 2019 không có gì thay đổi. Nhưng BLLĐ 2019 đã có sự thay đổi về tên Điều so với BLLĐ 2012, theo đó, nếu như BLLĐ 2012 chỉ quy định tên Điều là “Tiền lương trong thời gian thử việc” thì đến với BLLĐ 2019 thì nhà làm luật đã tinh gọn đơn giản, ngắn gọn và súc tích hơn nhưng vẫn không thay đổi bản chất, cụ thể BLLĐ 2019 đã thay đổi là “Tiền lương thử việc”

Từ các quy định trên, có thể thấy rằng tiền lương thử việc sẽ do các bên tự thỏa thuận với nhau, tuy nhiên phải đảm bảo điều kiện là ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.

Trên đây là các thông tin về Trong thời gian thử việc mỗi bên có quyền gì? [2023] mà Zluat cung cấp tới quý bạn đọc Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào cần hỗ trợ về vấn đề trên vui lòng liên hệ với Công ty Zluat của chúng tôi. Công ty Zluat luôn cam kết sẽ đưa ra nhưng hỗ trợ tư vấn về pháp lý nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Xin chân thành cảm ơn quý bạn đọc.

✅ Dịch vụ thành lập công ty ⭕ Zluat cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc
✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh ⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình
✅ Dịch vụ ly hôn ⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn
✅ Dịch vụ kế toán ⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật
✅ Dịch vụ kiểm toán ⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác
✅ Dịch vụ làm hộ chiếu ⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang